Buôn bán nô lệ ở châu Phi đầu thời kì lịch sử cận đại
Ximôn Bôliva, chiến sĩ vĩ đại của khu vực Mĩ Latinh
Quá trình xâm lược Ấn Độ của Anh
Những cuộc kháng chiến khởi nghĩa tại Ấn Độ
Chính sách của Thái Bình Thiên Quốc
Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Tây Ban Nha ở châu Mỹ(1810-1826)
Cuộc xâm chiếm Angiêri của thực dân Pháp
Angiêri bị lệ thuộc vào đế quốc Ottoman, song chính quyền của Suntan ở đây không vững chắc. Trên thực tế, từ đầu thế kỉ XVIII Angiêri là nước có chủ quyền, độc lập. Việc thần phục Ixtambun chí giới hạn ở việc theo định kì Angiêri sang cống nạp, mà việc cống nạp cũng không được thưởng xuyên như trước. Vào đầu thế kỉ XIX, Angiêri là một nước khá hùng mạnh, có hạm đội trên biển Địa Trung Hải, có quan hệ với nhiều nước láng giềng, nhận viện trợ quân sự của Pháp và cung cấp lương thực, nguyên vật liệu cho Pháp khi nước này bị liên minh phong kiến và Anh bao vây. Trong chiến tranh Pháp – Thổ (1798 – 1801), Angiêri vẫn giữ quan hệ tốt với Pháp.
Tuy nhiên, giai cấp tư sản công nghiệp Pháp từ lâu có âm mưu xâm chiếm Angiêri. Chúng đã xây dựng các trạm thương nghiệp, được quyền tự do khi mua lương thực ở Angiêri, đứng hàng đầu trong mậu dịch với nước này và thu được những món lời lớn. Cho đến thời kì Napôlêông Bônapác trị vì, âm mưu xâm chiếm Angiêri làm thuộc địa mới được tiến hành nhàm mở rộng hơn nữa thị trường, đáp ứng sự phát triển công, thương nghiệp của Pháp. Lúc bấy giờ Angiêri bước vào giai đoạn suy yếu (lực lượng vũ trang không hùng mạnh như trước, tình trạng cát cứ, nội chiến, chính quyền trung ương chỉ quản lí được 1/6 đất nước), nên càng thúc đẩy Pháp thực hiện âm mưu xâm lược của mình, để Angiêri không rơi vào tay thực dân khác.
Lấy cớ Xuntan làm nhục Đại sứ Pháp năm 1827, quân Pháp bao vây bờ biển Angiêri. Mùa hè 1830, 37.000 quân Pháp đổ bộ lên cảng Xiđi Pherut (Sidiangrruch). Quân đội Angiêri chống trả mãnh liệt, nhưng với lực lượng mạnh hơn quân Pháp đã đánh bại quân Ăngiêri và nhânh chóng chiếm thủ phủ Angiê. Xuntan phải đầu hàng và bị bắt lưu đày ra nước ngoài. Bọn binh Pháp nợ tiền mua lương thực của Angiêri, không chịu trả. Tháng 7/1820, Pháp tự ý xoá bỏ số nợ này. Ngày 29/4/1827, Xuntan Angiêri Hutxen (Hussein) gặp viên lãnh sự Pháp để đòi nợ. Viên lãnh sự Pháp không những khôg chịu trả mà còn trảlời: “Chính phủ nước chúng tôi không trảlời bằng thư cho Ngài, tức là yêu cầu của Ngài không có hiệu lực”. Xuntan Angiêri dùng cán quạt đánh vào đầu viên lãnh sự. Chính phủ Pháp đời Angiêri xinlính, Pháp tha hồ cướp bócngân khố, tài sản của nhân dân Angiêrigiá khoáng 55 triệu. Năm 1834, Pháp chính thức tuyên bố Arigicri 1- thuộc địa củamình. Ngay từ đầu, đội quânviễn chinh Pháp đãgặp phải sự kháng chiến mạnh mẽ của nhândân. Thực dân Pháp phải mất 30 năm mới bình định được về quân sự. Trong một thời gian dài, quân Pháp tiến ra khỏi những nơi chiếm đóng, vì cuộc kháng chiến của nhân dân Angiôri nổ ra khăp nơi, nổi bật là cuộc đấu tranh của nhândân miền Tây, do anh hùng dântôc Apđen Cađe lãnh đạo.
Đọc thêm tại: http://lichsuthegioicandai.blogspot.com/2015/07/cuoc-au-tranh-chong-phap-xam-luoc-cua.html
Cuộc đấu tranh chống Pháp xâm lược của nhân dân Angieri
Môhamét Ali chuẩn bị cho cuộc cải cách Ai Cập
Môhamét Ali cải cách ruộng đất, công nghiệp và văn hóa giáo dục
Quá trình xâm chiếm và thống trị các nước châu Phi của thực dân
Tình trạng buôn bán lô lệ Châu Phi trong thế kỉ XV – thế kỉ XIX
Châu Phi và sự xâm chiếm của các nước châu Âu
Chủ nghĩa Mơnrô (1823) và sự bành trướng của Mĩ
Các nước Mĩ latinh đấu tranh trước các nước tư bản châu Âu
Chế độ cộng hoà được xác lập ở Mêhicô.
Những thành tựu về toán học, thiên văn học, y học
Trước khi bị thực dân châu Âu chinh phục, một vài dân tộc ở vùng này đã đạt tới trình độ văn minh khá cao. Những dấu vết, di tích khảo cổ cởn lại chứng tỏ người Adơtếc – chủ nhân của một quốc gia ở khu vực Mêhicô – đà đạt những thành tựu về toán học, thiên văn học, y học, nghệ thuật, kiến trúc. Họ đã xây dựng được thành phố Mêhicô, một trong những thành phố lớn nhất thời bây giở và những Kim tự tháp quy mô không kém gì Kim tự tháp Ai Cập. Từ thế kỉ X, trên dải đất dài rộng từ Côlômbia đến Chilê, người Inca đã thành lập được vương quốc của mình và xây dựng nhiều đến đài nguy nga tráng lệ. Đền thở Mặt trởi là một trong những công trình tiêu biểu cho nghệ thuật của người Inca về kiến trúc và nghệ thuật làm các tượng bằng vàng, bạc, đá quý.
Trong quá trình xâm lược và đô hộ, thực dân phương Tây gây không biết bao nhiêu tội ác đối với nhân dân khu vực này. Hơn một triệu người dân bản xứ trên quần đảo Angti trong vùng biển Caribê bị tiêu diệt gần hết sau mấy năm đầu dưới ách thống trị của Tây Ban Nha. Biết bao nhiêu công trình của nền văn hoá xưa, quý giá của người Adơtếc, Inca bị thiêu huỷ.
Thực dân phương Tây bóc lột nhân dân bản địa bằng tô, thuế. Chúng duy trì chế độ bóc lột phong kiến, cộng thêm sự tước đoạt của giáo hội và bóc lột tư bản chủ nghĩa trong việc sử dụng lao động làm thuê. Với chế độ “tô lao dịch” kéo dài từ 1503 – 1720, bọn thực dân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã bắt nồng nô làm không công cho chúa đất từ 200 – 300 ngày trong một năm. Từ năm 1720, “chế độ lao dịch” lại được thay thế bằng chế độ “đại điền trang” (latifundia), quy định nông nô có thể được giải phóng nếu trả hết nợ cho chủ đất bằng cách làm công trừ nợ. Trên thực tế, nông nô bị gắn chặt vào đất đai của địa chủ, và họ khó có tiền để trả hết nợ. Các chủ hầm mỏ khai thác kim loại quý; người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha mở các công trường xây dựng đưởng sá, nhà cửa… Chúng cưỡng bức người Inđian và người da đen đưa từ châu Phi sang làm việc như nô lệ. Người nô lệ phải lao dộng dưới làn roi, báng súng của bọn lính gác, bọn chủ và chết dẩn chết mởn vì đói rét, bệnh tật, bị đánh đập và tai nạn lao động.
Chế độ chính trị của bọn thực dân phương Tây ở Mĩ Latinli cực kì tàn khốc, dựa trên bộ máy cai trị, quân đôi, cảnh sát và roi vọt, chúng chém giết nhân dân chống lại mình, song không dập tắt được phong trào
Đọc thêm tại: http://lichsuthegioicandai.blogspot.com/2015/07/nguyen-nhan-that-bai-cua-phong-trao.html
Nguyên nhân thất bại của phong trào Babit
Cuộc đấu tranh của tín đồ Babit phản ánh nguyên vọng lâu đời của nhân dân lao động, song họ cởn mang nhiều tư tưởng không tưởng trong chủ trương như xoá bỏ chế độ tư hữu tài sản, chia lại ruộng đất, xác lập chế độ công hữu.
Nguyên nhân thất bại của phong trào Babit là tính tự phát, phấn tán, kém tổ chức và thiếu sự lãnh đạo thống nhất.
Phong trào Babit, phong trao đấu tranh chống phong kiến và tư bản nước ngoài của nhân dân Ba Tư có nhiêu chủ trương biện pháp tiến bộ, đáp ứng được yêu cầu nguyên vọng nhân dân trong việc giành độc lập và xây dựng một xã hội công bằng, chính nghĩa.
Sau cuộc khởi nghĩa Babit bị đàn áp, các nước tư bản phương TAy tăng cưởng xâm nhập vào Ba Tư. Các nguồn lợi lớn của Ba Tư đều do tư bản nước ngoài nắm giữ. Ba Tư dần dẩn trở thành nước nửa thuộc địa. Vì vậy, vào cuối thế kỉ XIX – dầu thế kỉ XX, phong trào dấu tranh của nhân dân Ba Tư lại dâng cao, tiêu biểu là “vụ bạo dông thuốc lá” (1891) chông dộc quyền mua bán, thuốc lá của Anh ở Ba Tư. Phong trào dân chủ (1905 – 1907) cũng buộc chính quyền phong kiến nhượng bộ (ban hành Hiến pháp ban bô quyển tự do dân chủ cho nhân dân…).
Những một tích cực và hạn chế của phong trào Babit đưọc thể hiện như thế nào?
Nguyên nhân thất bại của phong trào Babit.
Nhìn chung vào nửa đầu thế kỉ XIX, chế độ phong kiến ở các nước châu Á đãrơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Nhân cơ hội này, các nước tư bản Âu Mĩ đã lần lượt tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược và đặt ách đô hộ với nhiều hình thức khác nhau, song về cơ bản là sự bóc lột tàn tệ, áp bức mọi mặt. Nhân dân các nước châu Á đã đứng dậy chiến đấu bảo vệ tổ quốc, nhưng đều thất bại.
Phân tích những nguyên nhân chủ yếu làm cho cuộc đấu tranh chống phong kiến, thực dân xâm lược của nhân dân các nước châu Á vào nửa đâu thế kỉ XIX thất bại.
Đọc thêm tại: http://lichsuthegioicandai.blogspot.com/2015/07/cuoc-chien-tranh-gianh-oc-cua-nhan-dan.html
Cuộc chiến tranh giành độc của nhân dân các nước Mĩ Latinh
Nhân dân Mĩ Latinh đã nổi dậy đâu tranh, sôi nổi nhất vào những thập niên cuối thế kỉ XVIII, khi cuộc Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ giành dược thắng lợi.
Năm 1780, người Inđian ở Pêru khởi nghĩa, đởi phục hổi quốc gia của người Inca. Cuộc đấu tranh kéo dài trong 2 năm (1780 – 1782), quân đội Tây Ban Nha hết sức vất vả mới đàn áp được nghĩa quân và giết chết gần 8 van ncurti
Năm 1781, cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Tấn Granađa nhằm chống việc chính quyển tăng thuế. Quân khởi nghĩa tiến sát thủ đô Bôzôta, chính quyền phải tuyên bố giảm thuế. Song cuộc khởi nghĩa bị đàn áp. Năm 1797, nhân dân Kôrô ồ Vênêxuêla đấu tranh chống ách thống trị của Tây Ban Nha và bị dìm trong biển máu.
Một trong những cuộc đấu tranh nổi bật nhất là cuộc cách mạng của những người nô lệ ở Haiti. Lúc đầu, Haiti là thuộc địa của Tây Ban Nha, sau chuyển sang thực dân Pháp. Dân bản địa là người Anhđiêng, dưới sự thống trị của thực dân, họ bị tiêu diệt nhânh chóng và thay vào đó là những IÌÔ lệ da đen từ châu Phi đưa sang. Đến cuối thế kỉ XVIII, ở Haiti có khoảng nửa triệu người nô lệ da đen và người lai đen – trắng (gọi là người Mulat). Trên đảo có khoảng 4-5 nghìn người thuộc gia đinh các chủ đồn điền, sống trên sức lao động của nô lệ da đen và người lai. Ngoài ra cởn có một ít chủ các trang trại nhỏ, thợ thủ công, công nhân da trắng.
Cuộc cách mạng bắt đầu từ mùa thu 1791 khi nô lệ nổi dậy đốt phá đồn điền. Dân nghèo da trắng cũng đứng trong hàng ngũ nghĩa quân, với hơnngười da đen. Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa là Tutxên Luvectua, xuất thấn trong gia đình nô lệ và bản thấn ông cũng là nô lệ. Ông đã nêu khẩu hiệu chiến đấu “Chiến thắng hay chết – chết hay tự do!”.
Tutxên tuyên bố giải phóng nô lộ, tịch thu ruộng đất của chủ đồn điền chia cho nô lệ. Năm 1801, đội quân 20 nghìn người do Napôlêông Bônapác phái sang Haiti, đàn áp cuộc khởi nghĩa, lùng bắt Tutxên đưa về Pháp; ông đã chết trong tù. Nghĩa quân tiếp tục đánh bại quân xâm lược Pháp. Năm 1804, Haiti tuyên bố độc lập và thành lập nước cộng hoà da đen đầu tiên ở Mĩ Latinh.
Cuối thế kỉ xvm, nhân dân Braxin cũng nổi dậy đấu tranh chống thực dân Bồ Đào Nha, do một tổ chức yêu nước lãnh đạo, đứng dầu là Xavơriê, nhằm xoá bỏ chế độ nô lệ và thành lập nước Cộng hoà. Cuộc đấu tranh đà thất bại.
Các nước Mĩ Latinh trước chiến tranh giành độc lập
Cùng với các nước châu Á, nhân dân các nước Mĩ Latinh và châu Phi cũng đứng trước nguy cơ bị xâm lược và trở thành thuộc địa, nước phụ thuộc. Bên cạnh những điểm chung có nét riêng của từng nước.
CÁC NƯỚC Mĩ LATINH
Châu Mĩ vào cuối thế kỉ XV vẫn là vùng đất hoang vu, với các cộng đồng người cởn trong quan hệ tiền phong kiến. Tuy vậy, nhân dân các nước này cũng đã có nền văn minh khá rực rỡ với đất đai giàu tài nguyên. Thực dân phương Tây đã đến châu lục này xâm chiếm làm thuộc địa, tiêu diệt người bản xứ. Mĩ Latinh là một bộ phận của châu Mĩ, cũng nằm trong số phận chung như vậy và nhân dân cũng kiên cưởng đấu tranh chống áp bức, giành độc lập tự do.
Các nước Mĩ Latinh trước chiến tranh giành độc lập
Đến đầu thế kỉ XIX, các nước khu vực Mĩ Latinh gồm toàn bộ Trung MT, Nam Mĩ và những hởn đảo lớn, nhỏ ở vùng Caribê, có diện tích 21 triệu km2 và số dân khoảng 200 triệu. Dân cư ở đây gồm ba tộc người chính: người Indian(da đỏ) là dân bản địa đã cư trú lâu đởi; người da trấng từ châu Âu di thực sang và người da den từ châu Phi bị bán sang làm nô lệ. Ngoài ra, cởn có một số người châu Á và những người lai. Khu vực Mĩ Latinh trước chiến tranh giành độc lập, phần lớn các nước là thuộc địa của TâyBan Nha và Bồ Đào Nha (Bồ Đào Nha chi có một thuộc dịa Braxin – nhưng rất rộng lớn, chiếm 1/2 diện tích khu vực Mĩ Latinh). Ngoài ra, Anh,
Từ giữa thế kỉ XV đến đầu thế kỉ XIX, bon buôn bán da săn bắt mua bán đẽ chuyển từ chau Phi dâng chau Mĩ hơn 60 triệu người. Những người nổ lệ da đen cũng như người Indian bản dịa phai lao dỏng vất vá dưới báng súng và roi vọt của bọn lãnh chúa.
Pháp, Hà Lan… cũng chiếm được một số vùng đất nhỏ và đảo ở vint, Caribe, như Pháp chiếm Haiti, Anh chiếm Giamaica và Guyana, Hà Lan có vài đảo nhỏ. Nhìn chung, ngôn ngữ chính thức của cư dân ở khu vực này là tiếng Tây Ban Nha và Bổ Đào Nha, thuộc ngữ hệ Latinh, nên vùng này mang tên chung là “khu vực MĩLatinh”.
Đọc thêm tại: http://lichsuthegioicandai.blogspot.com/2015/07/phong-trao-babit.html
Phong trào Babit
Tín đồ giáo phái của Ali Môhamét tham gia phong trào được gọi là “Babit”, chủ yếu gồm nông dân, thợ thủ công, những người buôn bán có tinh thẩn, ý chí chống chế độ phong kiến, đồng thời cùng đấu tranh chống sự xâm lược của tư bản nước ngoài. Theo “Bêian”, mọi người đều bình dẳng và có nhiệm vụ xây dựng một vương quốc thần thánh của tín đồ Babit ở khấp Ba Tư. Những người không phải là tín đồ Babít, những người nước ngoài bị đuổi vé nước, tài sản của họ bị tịch thu và đem chia cho tín đồ. Giáo lí cùng nót den việc bảo vệ quyển tư hữu, đảm bảo quyền lợi của thương nhân (đánh thuêchung dối với mọi người, giữ bí mật các tài liệu buôn bán), quy dinh lai stito cho vay, nghĩa vụ phải trả nợ các món tiền vay… Nam 1847, khi cuộc khởi nghĩa chuẩn bị nổ ra, quốc vương Ba Tư tăng cưởng quân đội để đàn áp. Tuy vậy, phong trào Babit vẫn phát triển và lan rộng nhiều nơitrong nước. Tháng 9/1848, 2000 tín đồ Babít, gồm phán lớn là nông dân và thự thủ công, nổi dậy ở Madânđaran (Mazandaran). Cuộc khởi nghĩa kéo dài trong 8 tháng đến tháng 5/1849 thì bị dập tắt. Trong thời gian ngắn này nghĩa quân đã xây dựng được căn cứ, xây đồn đào chiến luỹ, đẩy lùi các cuộc tấn công của chế độ phong kiến và chuẩn bị thực hiện xã hội lí tưởng của mình.
Tháng 5/1850, cuộc khởi nghĩa của tín đồ Babit lại nổ ra Dêngian. Nông dân, tiểu thương và tăng lữ cấp dưới là lực lượng chủ yếu và lãnh đạo cuộc đấu tranh, trong đó phụ nữ giữ vai trở rất tích cực. Chính quyển phong kiến phải huy động một đội quân đông, mạnh, có pháo binh yểm trợ mới đàn áp được cuộc khởi nghĩa. Các cuộc khởi nghĩa trên bị đàn áp, song phong trào Babit vãn tiếp tục phát triển, dù Môhamét bị bắt sống và xử tử vào năm 1850.
Cuối tháng 6/1850, một cuộc khởi nghĩa khác của tín đồ Babit lại bùng nổ ở thành phố Hairidơ (tỉnh Phaxơ). Chính quyền phong kiến đàn áp rất dã man: dùng cực hình tra tấn những người bị bắt, đốt cháy nhiều nhà cửa, đặt người bị bắt trên miệng súng đai bác rồi bắn cho tan xác. Năm 1852, về cơ bản cuộc khởi nghĩa của những người Babit chấm dứt. Tuy nhiên, năm 1859 tín đổ đã nổi lên hai lần nữa.
Đọc thêm tại: http://lichsuthegioicandai.blogspot.com/2015/07/nuoc-iran-au-ki-xix-phan-1.html